Bối cảnh kinh tế thế giới 9 tháng đầu năm 2025 và triển vọng cả năm 2025-2026
Kinh tế thế giới (KTTG) 9 tháng đầu năm 2025 tiếp tục xu hướng tăng trưởng nhưng chậm lại bởi chính sách thuế quan bất định, khó lường của Mỹ cùng rủi ro địa chính trị còn phức tạp, dai dẳng trên nhiều khu vực. Theo dự báo mới nhất của các tổ chức quốc tế, tăng trưởng kinh tế toàn cầu có thể đạt mức 2,5-3,1% năm 2025 (thấp hơn 1 chút trong năm 2026), thấp hơn 0,2-0,3 điểm so với năm 2024, chủ yếu là do yếu tố thuế quan của Mỹ, lộ trình cắt giảm lãi suất của các NHTW lớn chậm lại và tâm lý đầu tư, tiêu dùng trước biến động địa chính trị và rủi ro chính sách thương mại – công nghệ; tăng trưởng thương mại toàn cầu ở mức 1,9-2,6% năm 2025-2026, thấp hơn mức 3,5% năm 2024. Điểm sáng là lạm phát toàn cầu được dự báo tiếp tục giảm xuống mức 4,2% năm 2025 và mức 3,6% năm 2026 (theo IMF, 7/2025) và lạm phát tại các nền kinh tế phát triển sẽ về sát mức mục tiêu; nhiều nước tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ, hạ lãi suất, đẩy mạnh đầu tư công, tăng nội lực và cải cách để hỗ trợ tăng trưởng trước mắt cũng như lâu dài.
Bức tranh kinh tế Việt Nam 9 tháng đầu năm 2025 ghi nhận nhiều điểm sáng
Một là, Đảng và Nhà nước tiếp tục hoàn thiện thể chế, thực hiện các chính sách chiến lược, thúc đẩy các động lực tăng trưởng, quyết tâm đạt mục tiêu tăng trưởng 8% trở lên gắn với ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế
Với quyết tâm chính trị cao, tinh thần khẩn trương, quyết liệt, Đảng và Nhà nước đã ban hành và chỉ đạo thực hiện 7 quyết sách chiến lược, mang tính lịch sử thể hiện đột phá trong đổi mới tư duy, tháo gỡ các điểm nghẽn, kiến tạo phát triển, đưa đất nước vững bước trong "kỷ nguyên mới". Đó là các nghị quyết trụ cột của Bộ Chính trị tạo đột phá về KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số (Nghị quyết 57), về hội nhập quốc tế (Nghị quyết 59), cải cách thể chế (Nghị quyết 66), phát triển kinh tế tư nhân (Nghị quyết 68), đảm bảo an ninh năng lượng (Nghị quyết 70), đổi mới giáo dục – đào tạo (Nghị quyết 71), đổi mới lĩnh vực y tế (Nghị quyết 72) và có thể một vài nghị quyết quan trọng khác trong thời gian tới.
Trong 9 tháng đầu năm, Quốc hội đã xem xét và thông qua số lượng Luật và Nghị quyết nhiều nhất từ trước đến nay (38 Luật, 25 Nghị quyết)...v.v. Đồng thời, Chính phủ đã thực hiện nhiều giải pháp, tập trung thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phấn đấu đạt 8,3-8,5% năm 2025 và khoảng 10% trong giai đoạn tiếp theo, gắn với giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại, tăng cường đối ngoại, hội nhập quốc tế; ứng phó thiên tai (nhất là các cơn bão số 5, số 10, số 11); đẩy mạnh ứng dụng KHCN và chuyển đổi số.
Chính sách tài khoá (CSTK) tiếp tục được được điều hành theo hướng mở rộng, có trọng tâm, trọng điểm. Theo đó, Chính phủ đẩy mạnh giải ngân đầu tư công, phấn đấu tỷ lệ giải ngân đạt 100% kế hoạch, tập trung cho các dự án trọng điểm quốc gia, đẩy mạnh thu NSNN tăng ít nhất 25% so với dự toán và triệt để tiết kiệm chi thường xuyên. Cùng với đó, các chính sách về miễn, giảm, gia hạn thuế, phí tiếp tục được triển khai, với tổng giá trị giãn hoãn, giảm thuế, phí năm 2025 danh nghĩa ước đạt hơn 200.000 tỷ đồng, giá trị thực khoảng 80.000 tỷ đồng.
Chính sách tiền tệ (CSTT) được điều hành theo hướng chủ động, linh hoạt, nới lỏng có kiểm soát, phối hợp chặt chẽ với CSTK. Theo đó, NHNN định hướng tăng trưởng tín dụng 16% năm 2025, sớm phân bổ hạn mức tăng trưởng tín dụng cho các TCTD, đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế; kiểm soát chặt chẽ tín dụng các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; đẩy nhanh việc tăng vốn điều lệ cho các NHTM; điều hành theo hướng cân bằng giữa lãi suất và tỷ giá, lành mạnh hóa thị trường vàng và thúc đẩy chuyển đổi số, thanh toán không dùng tiền mặt. Cùng với đó, các chương trình tín dụng đối với các lĩnh vực ưu tiên như phát triển nhà ở xã hội, nhà ở cho người dưới 35 tuổi, gói tín dụng 500 nghìn tỷ đồng cho đầu tư hạ tầng và KHCN, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; chương trình tín dụng hỗ trợ liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm lúa gạo chất lượng cao và phát thải thấp vùng ĐBSCL...v.v.
Về ứng phó với chính sách thuế quan của Mỹ, sau nhiều vòng đàm phán cùng với các giải pháp khác, mức thuế đối ứng áp dụng với hàng hóa từ Việt Nam bình quân 20% (thuế đối với hàng hoá trung chuyển là 40% như các nước khác), góp phần duy trì lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong thương mại quốc tế. Chính phủ chỉ đạo tiếp tục đàm phán theo ngành hàng; xây dựng chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, người lao động trong các lĩnh vực bị ảnh hưởng; đa dạng hóa thị trường, đối tác và thúc đẩy tăng nội lực.
Bức tranh kinh tế Việt Nam 9 tháng đầu năm 2025 ghi nhận nhiều điểm sáng (ảnh minh họa)
Hai là, GDP 9 tháng đầu năm 2025 tăng trưởng cao nhất so với cùng kỳ trong vòng 14 năm; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, các cân đối lớn được bảo đảm, GDP hết 9 tháng đầu năm 2025 tăng 7,85% so với cùng kỳ năm trước với sự phục hồi của các động lực cả phía cung và cầu và đà tăng trưởng tích cực 2 con số của nhiều đầu tàu kinh tế.
Về phía cung, công nghiệp và xây dựng tăng 8,69%, cao nhất trong 3 khu vực và là mức tăng trưởng cao nhất trong vòng 7 năm, đóng góp 3,27 điểm % (41,6% trong mức tăng trưởng chung); lĩnh vực dịch vụ tiếp đà khởi sắc tăng 8,49% và đóng góp cao nhất (3,64 điểm % hay 46,4%) vào mức tăng trưởng chung. Lĩnh vực nông - lâm - thủy sản dù chịu ảnh hưởng tiêu cực của thiên tai, bão lũ song tiếp tục là bệ đỡ vững chắc của nền kinh tế, duy trì mức tăng trưởng khá 3,83%, cao nhất trong vòng 7 năm, đóng góp 0,43 điểm % (tương đương 5,51%) vào mức tăng trưởng chung.
Về phía cầu, tiêu dùng cuối cùng tăng 8,07% và tích lũy tài sản tăng 8,52% so với cùng kỳ, là mức tăng trưởng cao nhất trong vòng 9 năm. Tiêu dùng cuối cùng đóng góp 5,8 điểm % (73,8%) và tích lũy tài sản đóng góp 3,25 điểm % (41,4%) vào mức tăng trưởng chung trong 9 tháng đầu năm 2025, nhờ tăng trưởng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 11,6%, cao hơn mức trước dịch (trong 9T/2018-2019, tăng bình quân 10,6%), đặc biệt đầu tư công tăng 27,9%, cao gấp 3,4 lần mức trước dịch; đầu tư tư nhân tăng 7,8%, gấp 1,5 lần bình quân 9 tháng giai đoạn 2020-2024 (5,1%) nhưng còn thấp hơn so với trước dịch (17%).
Xuất khẩu ròng hàng hóa trong 9T/2025 đạt 16,8 tỷ USD, cao gấp 2,3 lần mức trước dịch. Trong đó, xuất khẩu điện tử, máy tính và linh kiện (chiếm 22,2% tổng kim ngạch xuất khẩu) tăng 45,9%, cao hơn tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chung và là mức tăng trưởng cao nhất so với cùng kỳ trong vòng 8 năm nhờ hưởng lợi từ sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế số, công nghệ số, công nghiệp chế biến - chế tạo (chỉ số sản xuất - IIP của công nghiệp chế biến - chế tạo tăng 10,4%, cao hơn tốc độ tăng trưởng IIP chung 9,1% và là mức cao nhất so với cùng kỳ trong vòng 4 năm). Một lý do khác là nhiều doanh nghiệp tranh thủ cơ hội trong đẩy mạnh xuất khẩu trước khi bị áp mức thuế đối ứng (từ đầu tháng 8/2025).
Thu hút và giải ngân FDI tăng tích cực, với vốn FDI đăng ký đạt 28,54 tỷ USD, tăng 15,2% so với cùng kỳ; vốn FDI giải ngân ước đạt 18,8 tỷ USD (tăng 8,5%), là mức giải ngân cao nhất so với cùng kỳ trong 5 năm.
Tiêu dùng tiếp tục phục hồi, du lịch tăng mạnh, với tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ trong 9T/2025 tăng 9,5%, nhờ lượng khách du lịch tăng mạnh và tiêu dùng cá nhân phục hồi. Trong 9 tháng đầu năm, Việt Nam đã đón 15,44 triệu lượt khách quốc tế, tăng 21,5% so với cùng kỳ năm 2024 và 8T/2025, khách nội địa đạt 106 triệu lượt, tăng 18,4%), giúp doanh thu du lịch lữ hành tăng 20,5% và doanh thu dịch vụ lưu trú - ăn uống tăng 14,8% so với cùng kỳ.
Ba là, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát: nợ công cả năm 2025 ước ở mức 37% GDP, thâm hụt ngân sách 3,4% GDP, thấp hơn nhiều so với ngưỡng Quốc hội cho phép, nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ khoảng 24% tổng thu ngân sách, dưới ngưỡng theo khuyến cáo (khoảng 25%). Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân 9T/2025 tăng 3,27%, lạm phát cơ bản tăng 3,19% so với cùng kỳ năm 2024, thấp hơn mức tăng của lạm phát tổng thể (3,27%), chủ yếu là cung tiền tăng khá cao (hết 9T/2025, cung tiền ước tăng 8,5%, trong đó tín dụng tăng 13,4% so với đầu năm) nhưng vòng quay tiền vẫn còn chậm (chỉ ở mức 0,65 lần, bằng mức cùng kỳ năm 2024).
Bốn là, lãi suất cho vay cơ bản ổn định, thậm chí giảm nhẹ, tăng trưởng tín dụng khởi sắc: lãi suất cho vay giảm nhẹ khi các tổ chức tín dụng (TCTD) tiếp tục đẩy mạnh các gói tín dụng với lãi suất ưu đãi nhằm kích cầu tiêu dùng, thúc đẩy tăng trưởng. Theo NHNN, lãi suất cho vay bình quân của các khoản cho vay mới ở mức là 6,38%/năm, giảm khoảng 0,56% so với cuối năm 2024. Tăng trưởng tín dụng đến cuối tháng 9/2025 đạt 13,4% so với cuối năm 2024, gấp gần 1,5 lần mức 9,11% cùng kỳ năm 2024 và là mức cao nhất so với cùng kỳ 5 năm khi NHNN tiếp tục nới lỏng, linh hoạt chính sách tiền tệ cùng với các gói tín dụng ưu đãi, tập trung cho lĩnh vực sản xuất, kinh doanh (chiếm 78% tổng dư nợ).
Năm là, hoạt động doanh nghiệp có nhiều dấu hiệu khởi sắc: trong 9T/2025, số DN gia nhập thị trường (231,3 nghìn DN, tăng 26,4% so với cùng kỳ 2024) cao gấp 1,3 lần số DN rút lui khỏi trường (174,9 nghìn DN, tăng 6,8%), trong đó bao gồm 2.530 hộ kinh doanh chuyển lên thành doanh nghiệp. Kết quả đó khẳng định nỗ lực và quyết tâm thực hiện hiệu quả Nghị quyết 68/NQ-TW về kinh tế tư nhân và các quyết sách chiến lược về đột phá thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh.
Sáu là, thu ngân sách Nhà nước (NSNN) tăng mạnh nhờ đà tăng trưởng tích cực của sản xuất, tiêu dùng và xuất khẩu: thu NSNN trong 9T/2025 ước đạt 97,9% dự toán, tăng 30,5% so với cùng kỳ năm 2024 nhờ sự phục hồi mạnh của hoạt động sản xuất, tiêu dùng và xuất - nhập khẩu. Chi NSNN ước đạt 63,4% dự toán năm, tăng 31,4% so với cùng kỳ năm 2024 nhờ giải ngân đầu tư công tăng tích cực (tăng 27,9% so với cùng kỳ năm 2024).
Tăng trưởng tín dụng đến cuối tháng 9/2025 đạt 13,4%, gấp gần 1,5 lần mức 9,11% cùng kỳ năm 2024 và là mức cao nhất so với cùng kỳ 5 năm trở lại đây
Sáu rủi ro, thách thức chính trong thời gian còn lại năm 2025 và năm 2026
Một là, rủi ro, thách thức vẫn hiện hữu, bao gồm: (i) rủi ro địa chính trị và căng thẳng thương mại - công nghệ vẫn hiện hữu và khó dự báo, song mức độ và cơ chế truyền dẫn đã thay đổi trong bối cảnh cấu trúc thuế quan toàn cầu được định hình rõ hơn; (ii) nhiều nền kinh tế lớn (Mỹ, TQ, EU…) tăng trưởng chậm lại do thuế quan, tác động đến XK, đầu tư FDI và du lịch của Việt Nam; (iii) lạm phát, lãi suất dù giảm nhưng còn ở mức cao, neo lâu, khiến đà phục hồi khó khăn hơn nhiều, rủi ro nợ công và tư còn cao; (iv) nguy cơ rủi ro an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh mạng, dữ liệu; thiên tai, xâm nhập mặn, biến đổi khí hậu cực đoan vẫn thường trực.
Hai là, tỷ giá, nợ xấu tăng dù trong tầm kiểm soát: về tỷ giá, tính đến hết ngày 30/9, tỷ giá liên ngân hàng tăng 3,54%, tỷ giá trung tâm tăng 3,5% so với đầu năm, dù chỉ số đồng USD (DXY) giảm 9,8% trên thị trường quốc tế. Về nợ xấu, đến cuối tháng 5/2025, tỷ lệ nợ xấu nội bảng (không bao gồm 5 NHTM thuộc diện kiểm soát đặc biệt) ở mức 1,8%, giảm so với mức 1,93% cuối năm 2024 nhờ đà tăng trưởng tích cực các động lực tăng trưởng xuất khẩu, tiêu dùng, đầu tư và các cơ chế chính sách thuận lợi hơn trong xử lý nợ xấu. Tuy nhiên, nợ xấu của 27 ngân hàng niêm yết cuối quý 2/2025 ở mức 1,97%, tăng so với mức 1,9% cuối năm 2024, trong khi đó tỷ lệ bao phủ nợ xấu (dự phòng rủi ro tín dụng so với nợ xấu) giảm từ mức 91% cuối năm 2024 xuống còn 80% cuối quý 2/2025 cho thấy khả năng bù đắp rủi ro của các TCTD đang giảm hoặc các TCTD chưa quyết định trích lập dự phòng rủi ro.
Bốn là, cán cân thương mại chưa bền vững; sản xuất công nghiệp phục hồi chưa đồng đều, đầu tư tư nhân và tiêu dùng vẫn thấp hơn mức trước dịch: thặng dư thương mại hàng hóa chỉ bằng 79,5 với cùng kỳ 2024 cùng với nhập siêu dịch vụ vẫn ở mức cao (-8,3 tỷ USD trong 9T/2025) gây áp lực nhất định lên cán cân thương mại tổng thể, dự trữ ngoại hối và tỷ giá. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) và chỉ số sản xuất công nghiệp chế biến - chế tạo 9T/2025 vẫn thấp hơn so với cùng kỳ trước dịch (lần lượt là 10,1% và 11,9%). Chỉ số PMI sản xuất tháng 9/2025 đạt 50,4 điểm, dù vẫn ở mức mở rộng song số lượng đơn hàng xuất khẩu mới giảm nhẹ; chi phí đầu vào tăng cùng với thuế quan khiến biên lợi nhuận doanh nghiệp giảm. Tăng trưởng vốn đầu tư tư nhân đạt 7,8% trong 9T/2025, cao hơn cùng kỳ năm trước, nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với mức trước dịch (trong 9T/2018-2019, tăng khoảng 17%). Về tiêu dùng, nếu loại trừ yếu tố giá, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tăng 7,2% so với cùng kỳ, bằng khoảng 72% mức tăng trung bình trước dịch 2018-2019 (10%), doanh thu lưu trú - ăn uống tăng thấp hơn đáng kể so với mức tăng về lượng khách du lịch quốc tế (tăng 21,5%), cho thấy xu hướng tiêu dùng tiết kiệm hơn của du khách và các chính sách kích cầu du lịch vẫn chưa phát huy hiệu quả rõ nét...v.v.
Năm là, thị trường bất động sản phục hồi nhưng thiếu bền vững: mặc dù cung nhà ở xã hội đã tăng, đáp ứng phần nào nhu cầu cấp thiết của người dân. Tuy nhiên, theo Hiệp hội BĐS, giá căn hộ chung cư tại Hà Nội, TP. HCM đến cuối tháng 6/2025 đã tăng 33-36% so với cùng kỳ năm 2024, cao nhất trong vòng 10 năm; cùng với đó, tình trạng lệch pha cung - cầu vẫn xảy ra (lượng cung vẫn chủ yếu tập trung vào phân khúc trung và cao cấp), giá nhà đất tăng cao, vượt xa mức thu nhập của người dân, tín dụng bất động sản tăng khá cao (19% so đầu năm), trong đó tín dụng kinh doanh bất động sản tăng nhanh (tăng khoảng 24%), tiềm ẩn rủi ro khi thị trường xấu đi.
Sáu là, vận hành mô hình chính quyền địa phương 2 cấp còn nhiều vướng mắc; giải ngân đầu tư công không đồng đều; một số địa phương tăng trưởng thấp hơn mục tiêu đề ra. Việc vận hành mô hình chính quyền địa phương 2 cấp về cơ bản dần đi vào ổn định, nề nếp, nhưng còn nhiều vướng mắc, nhất là vấn đề thủ tục hành chính trong các lĩnh vực đất đai, xây dựng, đầu tư công, kế toán – tài chính, tư pháp...v.v. Giải ngân đầu tư công không đồng đều khi hơn một nửa số bộ, ngành và địa phương chưa đạt mức trung bình 50%. Một số địa phương đạt mức tăng trưởng GRDP 9T/2025 thấp hơn kế hoạch hoặc thấp hơn trung bình cả nước như TP.HCM (7,07%), Khánh Hòa (+7%), Lâm Đồng (+6,72%)...v.v.
Dự báo kinh tế Việt Nam cả năm 2025
- Tăng trưởng GDP: với kết quả tăng trưởng khả quan của 9 tháng đầu năm và mức thuế quan tương đối cạnh tranh, đột phá về thể chế, môi trường đầu tư - kinh doanh tiếp tục được cải thiện; các động lực tăng trưởng (cả truyền thống và mới) được khai thác, làm mới và phát huy hiệu quả cao hơn; kinh tế vĩ mô tiếp tục được duy trì ổn định, các cân đối lớn được bảo đảm, niềm tin của DN và người dân được củng cố, dự báo kinh tế Việt Nam có thể tăng 8-8,2% cả năm 2025 (kịch bản cơ sở) hoặc khả quan hơn, khoảng 8,3-8,5% (kịch bản tích cực). Theo đó, để đạt được mức tăng trưởng 8-8,2% cả năm 2025 hoặc cao hơn thì quý 4/2025, tăng trưởng GDP cần đạt ít nhất khoảng 8,4-8,8%.
- Về lạm phát: áp lực lạm phát có thể gia tăng mạnh hơn trong Q4/2025 do cả yếu tố chi phí đẩy (giá hàng hóa nhập khẩu cao hơn do thuế quan của Mỹ, tăng giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý) và yếu tố cầu kéo (tăng trưởng tín dụng ước đạt 18-20%%, vòng quay tiền ở mức 0,7-0,8 lần, cao hơn năm 2024 nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho tăng trưởng cao hơn). Tuy nhiên, CPI bình quân năm 2025 dự báo ở mức 3,8-4%, cao hơn năm 2024 (3,63%) song vẫn dưới mức mục tiêu của Quốc hội (4,5%) nhờ tác động cộng hưởng của các yếu tố hỗ trợ kiềm chế lạm phát, nguồn cung hàng hóa - dịch vụ thiết yếu trong nước được bảo đảm; tỷ giá, lãi suất cơ bản ổn định và phối hợp chính sách ngày càng tốt hơn.
Năm kiến nghị
Một là, thực hiện hiệu quả các chính sách chiến lược của Bộ Chính trị; khắc phục triệt để khó khăn, vướng mắc trong vận hành chính quyền địa phương 2 cấp; đẩy nhanh cải thiện thực chất môi trường đầu tư - kinh doanh: (i) Tiếp tục đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, triển khai thực hiện các nghị quyết đột phá của Bộ Chính trị (nhất là Nghị quyết 57, 59, 66, 68, 70, 71 và 72), cùng các nghị quyết của Quộc Hội, Chính phủ đã ban hành; Chính phủ sớm thành lập Quỹ hỗ trợ chuyển đổi xanh, Quỹ phát triển nhà ở; thành lập Trung tâm Tài chính quốc tế tại TP. HCM và Đà Nẵng, thị trường carbon…nhằm huy động và phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn; (ii) Tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong vận hành chính quyền địa phương hai cấp như bảo đảm chế độ đãi ngộ, trợ cấp tốt cho các cán bộ phải di chuyển địa điểm làm việc, bố trí cán bộ có đủ năng lực chuyên môn (đảm bảo đúng người, đúng việc); tinh giản quy trình, thủ tục hành chính; nâng cấp hạ tầng công nghệ; đẩy nhanh đào tạo, tập huấn cán bộ vận hành công vụ mới.
Hai là, chủ động, linh hoạt thích ứng với chính sách thuế quan của Mỹ: (i) Tích cực, kiên trì đàm phán với Mỹ nhằm giảm thêm thuế đối ứng, nhất là theo ngành hàng; (ii) Hoàn thiện Nghị định về kiểm soát thương mại chiến lược; Nghị định về xuất xứ hàng hóa, trong đó chú trọng giải quyết các quan ngại của Mỹ về sở hữu trí tuệ, thao túng tiền tệ, dược phẩm, năng lượng, an ninh mạng, gian lận thương mại, nguồn gốc xuất xứ, trung chuyển hàng hóa...; (iii) Hỗ trợ DN đa dạng hóa thị trường, đối tác, khai thác tốt hơn các FTA đã có và ký kết các FTA mới theo nhu cầu; (iv) Tăng cường kết nối giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI trong nâng cao năng lực quản trị DN, chuyển giao công nghệ, phát triển chuỗi cung ứng, tăng tỷ lệ nội địa hóa…v.v.
Ba là, triển khai có hiệu quả các chính sách kích cầu tiêu dùng; làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống và thúc đẩy mạnh mẽ các động lực tăng trưởng mới: (i) Thanh toán đầy đủ, kịp thời, thủ tục nhanh gọn các khoản phụ cấp, chế độ đặc thù cho cán bộ, công chức, viên chức theo chủ trương tinh gọn bộ máy của Đảng và Nhà nước; (ii) Sớm ban hành Luật thuế TNCN sửa đổi, trong đó nâng mức giảm trừ gia cảnh phù hợp, nâng mức doanh thu chịu thuế đối với hộ kinh doanh; (iii) Xây dựng và triển khai "Chương trình kích cầu du lịch" (đặc biệt du lịch MICE, du lịch lịch sử, văn hóa, triển lãm…); sớm cho phép thử nghiệm kinh tế đêm ở một số địa điểm phù hợp..; (iv) Xem xét tăng hạn mức cho vay tín chấp tiêu dùng (lên khoảng 200-300 triệu đồng từ mức 100 triệu đồng hiện nay); (v) Giải quyết kịp thời vướng mắc cho hộ kinh doanh trong triển khai kết nối hóa đơn điện tử với cơ quan thuế, cung cấp phần mềm chung kết nối với cơ quan thuế; nghiên cứu ban hành Nghị định về nâng cấp hộ kinh doanh thành doanh nghiệp.
Bốn là, nâng cao hiệu quả trong điều hành, phối hợp chính sách, nhất là chính sách tiền tệ, tài khóa và chính sách vĩ mô khác): (i) Đẩy mạnh đầu tư công, lan tỏa, dẫn dắt các nguồn vốn đầu tư khác; (ii) Tập trung khắc phục ảnh hưởng của bão lũ, thiên tai, luôn đảm bảo cung ứng đầy đủ hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, nhất là giai đoạn ảnh hưởng của bão lũ, thiên tai, nâng cao hiệu quả truyền thông, góp phần ổn định giá cả, kiểm soát lạm phát; (iii) Điều hành cân bằng giữa lãi suất và tỷ giá; kiểm soát phù hợp tín dụng kinh doanh BĐS; (iv) Triển khai hoạt động Trung tâm tài chính quốc tế tại TP. HCM và Đà Nẵng; đẩy mạnh phát triển thị trường TPDN minh bạch, chuyên nghiệp, bền vững...; (v) Triển khai hiệu quả Nghị định 232/2025/NĐ-CP ngày 26/8/2025 về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, và tăng cường chống buôn lậu để bình ổn thị trường, thu hẹp chênh lệch giá vàng trong nước và quốc tế, góp phần giảm áp lực tỷ giá và lạm phát, ổn định tâm lý người dân; (vi) Sớm có các giải pháp đồng bộ nhằm kiểm soát giá nhà đất; đa dạng hóa nguồn lực tài chính BĐS như thành lập Quỹ nhà ở quốc gia, quỹ đầu tư tín thác BĐS (REITs), có lộ trình đánh thuế BĐS phù hợp; hoàn thiện cơ sở dữ liệu đất đai, BĐS, nhà ở; cải thiện mạnh mẽ thủ tục hành chính đối với các dự án nhà ở xã hội…v.v.
Cuối cùng, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, chú trọng nâng cao chất lượng tăng trưởng: (i) Phấn đấu xử lý 10-12% tổng số gần 3.000 dự án còn vướng mắc, tồn đọng nhằm giải phóng nguồn lực, chống lãng phí; (ii) Xử lý dứt điểm các TCTD yếu kém, tăng vốn cho các TCTD Nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho tăng trưởng cao; (iii) Sớm thành lập Ủy ban năng suất quốc gia, theo đó, đẩy mạnh các chiến dịch về tăng năng suất; quan tâm chất lượng đầu tư công (nhất là các công trình trọng điểm) và tăng chi ngân sách cho giáo dục, y tế, R&D và hạ tầng số...; xây dựng Đề án nâng cao tính tự chủ, tự lực, tự cường và sức chống chịu của nền kinh tế và doanh nghiệp, nhất là lĩnh vực công nghiệp chiến lược, công nghiệp phụ trợ./.