Phó Tổng KTNN: Lỗ giả, lãi thực của doanh nghiệp FDI khiến ngân sách thất thu

NHVN 06:01 12/06/2020

"Hiện tượng các doanh nghiệp FDI kê khai, báo lỗ khá phổ biến, chiếm khoảng 50% tổng số doanh nghiệp FDI đang hoạt động trên cả nước đã khiến ngân sách thất thu hàng chục nghìn tỷ đồng"

Dù có đóng góp đáng kể trong quá trình phát triển của đất nước, song các doanh nghiệp và dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài kê khai, báo lỗ khá phổ biến, chiếm khoảng 50% tổng số doanh nghiệp FDI đang hoạt động trên cả nước đã khiến ngân sách thất thu hàng chục nghìn tỷ đồng.

PV đã có cuộc trao đổi với ông Đoàn Xuân Tiên, Phó Tổng Kiểm toán nhà nước (KTNN) xung quanh vấn đề này.

Ông có thể chia sẻ những kết quả mà hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã mang lại cho kinh tế Việt Nam?

Phó Tổng KTNN Đoàn Xuân Tiên: Kể từ khi mở cửa nền kinh tế đến nay, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam đã tăng mạnh hàng năm, đặc biệt là từ khi Việt Nam gia nhậ̣p Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và ký kết hàng loạt hiệp định thương mại tự do (FTA), Việt Nam đã trở thành nền kinh tế có độ mở lớn và là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài.

Có thể nói đầu tư FDI là một trong những nhân tố quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia. Đối với các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng, FDI có ý nghĩa lớn khi thể hiện ở vai trò quan trọng trong hoạt động cung cấp vốn, công nghệ và mở rộng quy mô sản xuất, tạo ra năng lực sản xuất mới, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhậ̣p kinh tế quốc tế.

Phó Tổng KTNN Đoàn Xuân Tiên. Ảnh: Kiểm toán nhà nước.

Chủ trương đẩy mạnh chính sách thu hút đầu tư, trong đó có hình thức đầu tư FDI của Đảng và Nhà nước trong những năm vừa qua là hết sức đúng đắn và cần thiết. Ngày 20/8/2019, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 50-NQ/TW, về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030.

Đây là lần đầu tiên, Bộ Chính trị ban hành nghị quyết riêng về thu hút đầu tư nước ngoài. Điều này cho thấy vai trò, vị trí, tầm quan trọng của nguồn lực bên ngoài đối với sự phát triển đất nước hiện nay và tính cấp bách của việc đề ra những chủ trương, chính sách mới để lãnh đạo, định hướng vấn đề này sau hơn 30 năm thực hiện Luậ̣t Đầu tư nước ngoài. Sự hiện diện của các nhà đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp FDI trong thời gian vừa qua đã góp phần rất lớn tới phát triển kinh tế của Việt Nam.

Thứ nhất, các dự án FDI đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. Trong các lý luậ̣n về tăng trưởng kinh tế, nhân tố vốn luôn là một trong những nhân tố được đề cậ̣p đến đầu tiên. Khi một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh hơn, nó cần nhiều vốn hơn nữa và nếu vốn trong nước không đủ, nền kinh tế sẽ cần vốn từ nước ngoài, trong đó có vốn FDI. Từ khi thực hiện Luậ̣t Đầu tư nước ngoài (năm 1987) đến nay, Việt Nam đã thu hút hơn 30.000 dự án đến từ 130 nước và vùng lãnh thổ với tổng vốn đăng ký đạt 362 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện đạt 211 tỷ USD.

Thứ hai, các dự án FDI đóng góp vào tăng trưởng GDP và thu ngân sách nhà nước. Nguồn vốn FDI đóng vai trò như là động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam với mức đóng góp của khu vực FDI trong GDP của cả nước tăng mạnh trong những năm vừa qua.

Thứ ba, các dự án FDI đã góp phần gia tăng tỷ trọng xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu ấn tượng của Việt Nam nhiều năm qua ghi dấu ấn đậ̣m nét của các nhà đầu tư FDI. Tác động lan tỏa xuất khẩu từ khối FDI còn góp phần thúc đẩy mạnh mẽ đến kết quả xuất khẩu của khối doanh nghiệp nội địa, tạo sức ép, buộc các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, gia tăng tìm hiểu thị trường xuất khẩu, tăng cường liên kết thương mại.

Thứ tư, các dự án FDI đóng góp vào tăng năng suất lao động với việc mang lại cho các nước tiếp nhậ̣n quy trình công nghệ tiên tiến, phương pháp quản lý hiện đại. Điều này cũng tác động tích cực đến doanh nghiệp nội địa thông qua học hỏi công nghệ mới để nâng khả năng cạnh tranh, hoặc cung cấp đầu vào cho doanh nghiệp FDI. Ngược lại, năng suất lao động cũng là nhân tố ảnh hưởng tới thu hút đầu tư FDI.

Thứ năm, các dự án FDI góp phần tạo việc làm và đào tạo nhân công thông qua việc thuê lao động địa phương, qua đó đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế của địa phương và góp phần tạo ra một đội ngũ lao động có kỹ năng cho đất nước đồng thời thu hút FDI. Ngoài ra, các dự án FDI còn mang lại nhiều yếu tố tích cực khác cho nền kinh tế Việt Nam như giúp các doanh nghiệp Việt Nam tham gia mạng lưới sản xuất, các chuỗi cung ứng toàn cầu.

Bên cạnh những mặt tích cực mà FDI mang lại, vẫn tồn tại những tiêu cực đã và đang ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế, ông có thể chia sẻ thêm về vấn đề này?

Phó Tổng KTNN Đoàn Xuân Tiên: Hiện tượng các doanh nghiệp FDI kê khai, báo lỗ khá phổ biến, chiếm khoảng 50% tổng số doanh nghiệp FDI đang hoạt động trên cả nước, trong đó có nhiều nguyên nhân, nhưng phải kể đến hành vi "chuyển giá".

Thống kê những năm qua cho thấy, cả nước có khoảng 50% doanh nghiệp FDI kê khai lỗ, trong đó nhiều doanh nghiệp thua lỗ liên tục trong nhiều năm liên tiếp. Ở TPHCM, có tới gần 60% trong số trên 3.500 doanh nghiệp FDI thường xuyên kê khai lỗ trong nhiều năm; tỉnh Bình Dương, một trong những tỉnh thu hút được nhiều dự án FDI, cũng có đến 50% doanh nghiệp FDI báo cáo lỗ từ năm 2006-2011.

Một điều bất hợp lý là mặc dù thua lỗ liên tục và lỗ lớn nhưng doanh nghiệp FDI vẫn mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh. Các ví dụ điển hình làtrường hợp của Cocacola hay Pepsi. Điều đáng nói là trong khi doanh nghiệp FDI báo lỗ thì hầu hết các doanh nghiệp trong nước cùng ngành nghề đều có lãi, nhất là trong lĩnh vực may mặc, giày da.

Hoạt động chuyển giá của các doanh nghiệp FDI đã gây thất thu cho ngân sách hàng chục ngàn tỷ đồng trong nhiều năm qua. Quy mô các khoản thu NSNN này không nhỏ khi các doanh nghiệp FDI đã chiếm tới khoảng 20% GDP, khoảng 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và chiếm trên 40% giá trị sản xuất công nghiệp, trên 50% tổng kim ngạch xuất khẩu, gần 50% tổng kim ngạch nhậ̣p khẩu, chiếm khoảng 30% tổng thu NSNN.

Ngoài ra, việc dựa nhiều vào FDI trong việc nhậ̣n đầu tư vốn, kỹ thuậ̣t, mạng lưới tiêu thụ hàng hóa của các công ty xuyên quốc gia thì các nước đang phát triển sẽ càng phụ thuộc vào các nước phát triển.

Bên cạnh đó, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuậ̣t, máy móc công nghệ nhanh chóng trở nên lạc hậ̣u dẫn đến tình trạng các nhà đầu tư tìm cách chuyển giao những máy móc đã lạc hậ̣u cho các nước nhậ̣n đầu tư. Hậ̣u quả của việc này là giá trị thực của những máy móc chuyển giao rất khó xác định, gây tổn hại môi trường sinh thái, chất lượng sản phẩm thấp, chi phí sản xuất cao.

Không những vậy, những năm vừa qua đã có nhiều vụ việc liên quan đến môi trường của các doanh nghiệp FDI bao gồm cả môi trường đất, nước và không khí. Tại nhiều khu vực tậ̣p trung nhiều Khu công nghiệp và dự án FDI lớn, tình trạng vi phạm các quy định về môi trường vẫn thường xuyên xảy ra.

Để thu hút vốn FDI, Việt Nam đã có nhiều chính sách ưu đãi về thuế, tài chính, tuy nhiên việc kê khai, thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của một số doanh nghiệp FDI chưa thậ̣t sự tương xứng với kỳ vọng. Vẫn còn có hiện tượng các doanh nghiệp FDI kê khai, báo lỗ, trong đó bao gồm cả hành vi chuyển giá và đã gây thất thu lớn cho ngân sách, làm gia tăng giá trị nhậ̣p khẩu, tác động tiêu cực đến cán cân thương mại và cán cân thanh toán; làm môi trường kinh doanh trong nước xấu đi, làm sụt giảm hiệu quả sử dụng vốn FDI nói riêng và vốn nói chung.

Vậy những yếu kém, hạn chế trong thực tiễn quản lý các dự án FDI trong thời gian qua là gì?

Phó Tổng KTNN Đoàn Xuân Tiên: Thứ nhất, chưa nhất quán giữa mục tiêu và biện pháp thực hiện thu hút. Một trong những mục tiêu của chính sách ưu đãi thu hút là thu hút các dự án FDI sử dụng công nghê cao, tuy nhiên căn cứ ưu đãi chưa dựa trên các tiêu chí về công nghệ được sử dụng;

Thứ hai, các chính sách ưu đãi được áp dụng chung cho toàn bộ các tỉnh thành, chưa dựa trên lợi thế cạnh tranh và đặc thù của mỗi địa phương. Thực tế trên đã dẫn tới tình trạng cạnh tranh về thu hút FDI giữa các địa phương.

Thứ ba, các chính sách thu hút ưu đãi còn phức tạp, chồng chéo, rải rác ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau

Thứ tư, thiếu theo dõi quá trình thực hiện chính sách. Cụ thể, các chính sách ưu đãi thu hút FDI được đưa ra, nhưng chưa được một cơ quan độc lậ̣p, có năng lực đánh giá về kết quả quá trình thực hiện các chính sách ưu đãi thu hút FDI.

Thứ năm, chưa thực hiện đánh giá tác động đầy đủ của chính sách và lợi ích chính sách mang lại.

Thứ sáu, các thủ tục nhận ưu đãi chưa minh ạch, vẫn còn cơ chế xin cho, một số chính sách ưu đãi được ban hành nhưng không có quy định về điều kiện và thủ tục để được hưởng ưu đãi.

Hiện tượng báo lỗ khá phổ biến, chiếm khoảng 50% tổng số doanh nghiệp FDI đang hoạt động trên cả nước đã khiến ngân sách thất thu hàng chục nghìn tỷ đồng. Ảnh: PV.

Trong tầm nhìn trung và dài hạn, thu hút FDI vẫn là nhiệm vụ trọng tâm để tăng trưởng kinh tế, bù đắp sự thiếu hụt về vốn và ngoại tệ, tuy nhiên, chúng ta cần chủ động nhậ̣n diện mặt trái của việc thu hút đầu tư FDI đến kinh tế, chính trị, xã hội, đặc biệt là chú ý đến môi trường, từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp và xây dựng các kế hoạch cụ thể nhằ̀m khắc phục các bất cậ̣p, thách thức đang gặp phải.

Việc kiểm toán chính sách và hoạt động thực thi các chính sách thu hút vốn đầu tư FDI trong thời gian qua còn một số hạn chế, bất cậ̣p nàogây ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán, thưa ông?

Phó Tổng KTNN Đoàn Xuân Tiên: Thứ nhất, cơ sở pháp lý để KTNN thực hiện kiểm toán việc ban hành chính sách và đánh giá việc thực thi chính sách thu hút vốn đầu tư FDI còn chưa rõ̃ ràng, chưa theo đúng tinh thần của Hiến pháp và quy định của Luậ̣t KTNN;

Thứ hai, kiểm toán viên của KTNN mới thực hiện kiểm toán một số mắt xích rất nhỏ trong quá trình này như kiểm toán công tác quản lý thuế, đất đai, kiểm toán môi trường và cũng chưa có các chuyên đề kiểm toán riêng cho loại hình đặc biệt này.

Thứ ba, công tác phối hợp giữa KTNN và các cơ quan quản lý nhà nước còn nhiều trở ngại do cơ sở pháp lý còn chưa rõ̃ ràng, đặc biệt là về đối tượng, nội dung kiểm toán.

Thứ tư, các chính sách và biện pháp thực thi chính sách thu hút vốn đầu tư FDI thường rất phức tạp, bao gồm nhiều khía cạnh như kinh tế, chính trị, ngoại giao, quốc phòng an ninh, xã hội, bản thân các dự án FDI cũng có quy mô lớn và ngày càng có xu hướng phát triển theo hướng công nghệ cao, phức tạp nên cũng đòi hỏi KTV phải tích cực cậ̣p nhậ̣t kiến thức để am hiểu được các lĩnh vực mới.

Xin trân trọng cảm ơn ông!

Theo Thời báo Ngân hàng

Link gốc : https://nhadautu.vn/gap-go-thu-tu-pho-tong-ktnn-lo-gia-lai-thuc-cua-doanh-nghiep-fdi-khien-ngan-sach-that-thu-hang-chuc-nghin-ty-d38432.html

Bạn đang đọc bài viết Phó Tổng KTNN: Lỗ giả, lãi thực của doanh nghiệp FDI khiến ngân sách thất thu tại chuyên mục Chính phủ - Bộ ngành. Thông tin phản ánh, liên hệ đường dây nóng : 0989 285 285 - 0989 285 285 Hoặc email: [email protected]
Tin cùng chuyên mục Chính phủ - Bộ ngành