Doanh nghiệp sẽ tự xác định doanh thu bình quân tháng và tự xác định số thuế thu nhập doanh nghiệp được giảm. |
Theo đó, Dự thảo quy định các đối tượng là tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có tổng doanh thu bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ năm 2020 không quá 200 tỷ đồng sẽ được giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của năm 2020.
Trường hợp doanh nghiệp mới thành lập trong năm 2020 không đủ 12 tháng thì tổng doanh thu năm 2020 được xác định bằng doanh thu thực tế của năm 2020 chia (:) cho số tháng doanh nghiệp thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh trong năm 2020 sau đó nhân (x) với 12 tháng.
Mức doanh thu bình quân tháng sẽ do doanh nghiệp tự xác định. Trường hợp doanh thu bình quân tháng không quá 16,67 tỷ đồng thì doanh nghiệp thực hiện tạm tính theo quý số thuế mà doanh nghiệp phải nộp theo quy định, sau đó tạm nộp số thuế thu nhập doanh nghiệp của quý sau khi đã giảm 30% số thuế tạm tính.
Kết thúc kỳ tính thuế năm 2020, trường hợp tổng doanh thu năm 2020 của doanh nghiệp không quá 200 tỷ đồng thì doanh nghiệp thực hiện kê khai giảm thuế thu nhập doanh nghiệp của năm 2020 khi quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định.
Trường hợp doanh nghiệp mới thành lập trong 3 tháng cuối năm 2019 và đã đăng ký xác định kỳ tính thuế năm đầu tiên sang kỳ tính thuế năm 2020 bao gồm các tháng mới thành lập trong năm 2019 thì thu nhập doanh nghiệp làm căn cứ xác định số thuế thu nhập doanh nghiệp được giảm theo quy định tại khoản này không bao gồm phần thu nhập phát sinh trong năm 2019.
Trường hợp doanh nghiệp mới thành lập trong 3 tháng cuối năm 2020 và đăng ký xác định kỳ tính thuế năm đầu tiên là năm 2021 bao gồm các tháng mới thành lập trong năm 2020 thì thu nhập doanh nghiệp làm căn cứ xác định số thuế thu nhập doanh nghiệp được giảm theo quy định tại khoản này chỉ tính trên phần thu nhập phát sinh trong năm 2020.
Khi thực hiện quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp, trường hợp số thuế tạm tính giảm của các quý cao hơn số thực tế được giảm thì doanh nghiệp phải kê khai nộp bổ sung số tiền thuế còn thiếu và tiền chậm nộp theo quy định; trường hợp số thuế tạm tính giảm của các quý thấp hơn số thực tế được giảm thì cơ quan thuế xử lý số tiền thuế nộp thừa theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.
Đáng chú ý, về thủ tục giảm thuế, Dự thảo quy định cơ quan Thuế không phải thông báo cho doanh nghiệp về việc chấp nhận giảm thuế. Trường hợp trong thời gian giảm thuế, cơ quan Thuế có cơ sở xác định doanh nghiệp không thuộc đối tượng được giảm thuế thì cơ quan thuế có văn bản thông báo cho doanh nghiệp về việc không giảm thuế và doanh nghiệp phải nộp đủ số tiền thuế và tiền chậm nộp theo quy định vào ngân sách nhà nước.
Trường hợp sau khi hết thời gian giảm thuế, cơ quan thuế phát hiện qua thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp không thuộc đối tượng được giảm thuế theo quy định tại Nghị định này hoặc số thuế đã kê khai để giảm lớn hơn số thuế được giảm theo quy định thì doanh nghiệp phải nộp lại số tiền thuế thiếu, tiền phạt và tiền chậm nộp do cơ quan thuế xác định lại vào ngân sách nhà nước.
Trường hợp sau khi hết thời gian giảm thuế, cơ quan thuế phát hiện qua thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp được giảm nhiều hơn số thuế đã kê khai giảm trước đó thì doanh nghiệp được khai bổ sung để tiếp tục hưởng số thuế được giảm theo mức mà cơ quan thuế xác định lại.
Theo Hải Quan Online