Kể từ đầu quý IV/2025, diễn biến lãi suất huy động đã trở nên sôi động hơn khi hàng loạt ngân hàng điều chỉnh tăng lãi suất nhiều lần và ở nhiều kỳ hạn với mức tăng trung bình từ 0,5-2 điểm %. Mới đây nhất, một trong "big 4" ngân hàng là Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) đã chính thức tham gia “cuộc đua” tăng lãi suất.
Theo biểu lãi suất mới, BIDV tăng mạnh lãi suất các kỳ hạn ngắn và trung hạn, trong đó kỳ hạn 6-11 tháng tăng tới 0,7%/năm. Hiện lãi suất tiết kiệm trực tuyến tại BIDV 4%/năm cho kỳ hạn 6-11 tháng, mức cao nhất 5%/năm đối với kỳ hạn 24-36 tháng.
Trước BIDV, Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (VietinBank) cũng đã tăng lãi suất tiền gửi trực tuyến vào cuối tháng 11. Tuy nhiên, nhóm "big 4" vẫn giữ mặt bằng lãi suất ở mức thấp so với trần quy định của NHNN và so với thị trường.
| |
| Ngân hàng đang chịu áp lực cung ứng vốn trung và dài hạn. |
Sau khi điều chỉnh tăng lãi suất, hiện nhiều ngân hàng thương mại đang niêm yết lãi suất tiết kiệm 1-5 tháng kịch trần là 4,75%/năm và lãi suất 6 tiết kiệm 6 - 12 tháng cũng dao động quanh mức 5,5-6,7%/năm.
Với mức NIM ngân hàng dao động từ 3-4%, lãi suất cho vay cũng sẽ tăng ở mức tương ứng với lãi suất huy động, với một số ngân hàng sẽ tăng nhanh hơn do áp lực chênh lệch tỷ lệ huy động và cho vay.
Theo chia sẻ của đại diện một số ngân hàng thương mại, lãi suất cho vay từ tháng 8 đến nay - đặc biệt trong lĩnh vực bất động sản đã điều chỉnh tăng 4 lần, với mức tăng trung bình mỗi lần từ 0,5-1 điểm %. Như vậy, tối thiểu mức lãi suất cho vay với lĩnh vực này đã tăng thêm khoảng 2 điểm % (với một số ngân hàng thương mại) và dự báo sẽ còn tiếp tục tăng sau tháng 12/2025.
Hiện một số ngân hàng đã điều chỉnh lãi suất cho vay cá nhân, trung, dài hạn phục vụ mục đích cá nhân mua, sửa nhà lên mức 6,7-7,5%/năm - ưu đãi áp dụng cho 6 - 12 tháng đầu, sau đó lãi suất thả nổi theo thị trường (mức lãi suất tăng thêm dao động từ 3-4 điểm %/năm, khiến lãi suất áp dụng có thể đẩy lên 9-11%/năm).
Chia sẻ tại diễn đàn mới đây, bà Hà Thu Giang, Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh NHNN cùng thừa nhận, nhu cầu vốn trung và dài hạn cho các dự án, công trình trọng điểm quốc gia là rất lớn tạo áp lực không nhỏ đối với các tổ chức tín dụng trong việc cân đối nguồn vốn và quản trị rủi ro kỳ hạn, nhất là khi nguồn vốn cho vay chủ yếu vẫn là tiền gửi có kỳ hạn ngắn, hiện chiếm khoảng 80% tổng tiền gửi của hệ thống.
Bên cạnh đó, một số chương trình tín dụng theo ngành, lĩnh vực còn gặp khó khăn trong quá trình triển khai, điển hình như Chương trình cho vay nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ theo Nghị quyết 33/NQ-CP của Chính phủ, do nguồn cung nhà ở xã hội còn hạn chế.
Một số chuyên gia chỉ ra rằng, nguyên nhân chính khiến các ngân hàng đồng loạt tăng lãi suất huy động thời điểm hiện tại xuất phát từ yếu tố mùa vụ. Cuối năm là giai đoạn nhu cầu vốn của doanh nghiệp và nền kinh tế tăng cao, trong khi các ngân hàng cần đẩy mạnh tín dụng để hoàn thành chỉ tiêu cả năm - điều này cũng sẽ tạo dư địa để các ngân hàng có thể được cấp room cao hơn vào năm sau.
Cần duy trì chính sách tiền tệ “nới lỏng thận trọng”
Theo Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà, yêu cầu cấp thiết đặt ra là Việt Nam phải đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao liên tục, ổn định và bền vững trong giai đoạn phát triển tới. Trong đó, mục tiêu tăng trưởng “2 con số” có ý nghĩa vô cùng quan trọng, tạo tiền đề vững chắc trong việc thu hẹp nhanh khoảng cách với các nước đi trước; kết hợp với nâng cao năng lực tự chủ và hiệu quả hội nhập kinh tế, qua đó khẳng định được vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế.
Phó Thống đốc cũng cho biết, nhiều cơ chế, chính sách mới đã được triển khai, các công trình, dự án,… trọng điểm của quốc gia đã được khởi động; các nguồn lực về vốn, con người,... được đề cao. Trong đó, việc huy động nguồn lực về vốn đảm bảo đủ lớn, đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, thúc đẩy nền kinh tế vận hành theo mô hình tăng trưởng mới dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là một trong những nhiệm vụ quan trọng có tầm ảnh hưởng quyết định đến mục tiêu tăng trưởng “2 con số” đã đặt ra.
Chia sẻ về mục tiêu tăng trưởng GDP 2 con số và định hướng chính sách tiền tệ năm 2026, ông Nguyễn Thành Nam, giảng viên khoa Ngân hàng, Học viện Ngân hàng cho rằng, đặt ra mục tiêu tăng trưởng GDP từ 10% trở lên là mức rất cao so với mặt bằng tăng trưởng bình quân của Việt Nam trong những năm qua (dao động chỉ từ 6 - 8%). Điều này đòi hỏi đặt ra mục tiêu tăng trưởng tín dụng cũng sẽ ở mức cao tương ứng, khoảng 17-18%.
Đồng thời, để có được tăng trưởng kinh tế bền vững, cơ cấu tín dụng cần tập trung vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, tiêu dùng, năng lượng tái tạo, công nghệ… Hạn chế dòng vốn đi vào các lĩnh vực phi sản xuất, có nhiều rủi ro như đầu cơ bất động sản, đầu cơ vàng, chứng khoán…
Về định hướng chính sách tiền tệ năm 2026, ông Nam cho rằng, điều hành chính sách tiền tệ trong năm tới có nhiều thách thức bởi dư địa chính sách tiền tệ đang dần thu hẹp. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đánh giá, dư địa chính sách tiền tệ không nhiều do tăng trưởng tín dụng cao duy trì trong nhiều năm, cùng với sự gia tăng tài sản rủi ro mới như tài sản số sẽ ảnh hưởng ít nhiều đến mục tiêu tăng trưởng 2 con số.
Theo đó, năm 2026 để có thể thực hiện đồng thời vừa đảm bảo kiểm soát lạm phát, bình ổn tỷ giá, vừa hỗ trợ tăng trưởng kinh tế cao, ông Nam nhấn mạnh, NHNN nên tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ “nới lỏng thận trọng”, điều hành lãi suất phù hợp với diễn biến thị trường kinh tế vĩ mô và lạm phát, điều hành tăng trưởng tín dụng linh hoạt, ưu tiên mạnh mẽ dòng vốn tín dụng cho các lĩnh vực sản xuất kinh doanh tiêu dùng nhằm hỗ trợ tốt cho tăng trưởng kinh tế.
Đồng thời, cần theo dõi sát tình hình thị trường điều hành tỷ giá linh hoạt phù hợp phối hợp đồng bộ với các công cụ chính sách tiền tệ và phối hợp hài hòa, chặt chẽ với chính sách tài khóa nhằm hỗ trợ ưu tiên tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh.







