Tổng Giám đốc HSBC Việt Nam, ông Tim Evans, vừa có những đánh giá kinh tế Việt Nam cuối năm 2020 và triển vọng 2021. Chúng tôi xin đăng tải (tóm lược) những đánh giá của ông Tim Evans để độc giả cùng theo dõi.
Những điểm sáng của kinh tế Việt Nam năm 2020
Năm 2020 sẽ phủ bóng đen lên tất cả chúng ta trong một thời gian dài sắp tới. Đại dịch Covid-19 đã thay đổi hoàn toàn cách chúng ta làm việc, cách chúng ta sống và tương tác. Đại dịch này cũng có tác động đến cách các doanh nghiệp kinh doanh và hợp tác với nhau.
Ông Evans cho biết, những ngày đầu đảm nhận vai trò Tổng Giám đốc tại ngân hàng HSBC Việt Nam, mục tiêu của ông là tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng và hỗ trợ các doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam phát triển lên một tầm cao mới. Năm 2020 đã thay đổi tất cả những điều đó. Chúng ta đã sống qua những khoảng thời gian thử thách chưa từng có và không ai trong chúng ta mong đợi. Chúng ta đã được thử thách theo những cách mà mình không bao giờ nghĩ là có thể. Chúng ta đã phải chấp nhận một thực tế về cuộc khủng hoảng y tế toàn cầu, dẫn đến những thách thức về kinh tế, tài chính và xã hội.
"Bất chấp những thách thức "có một không hai" trong cuộc sống, chúng ta cần nhìn về tương lai. Chúng ta phải xem xét cách thức mà đất nước và con người Việt Nam đã đối mặt và ứng phó với cuộc khủng hoảng này. Việt Nam được đánh giá là đã xử lý cuộc khủng hoảng này tốt hơn hầu hết các quốc gia khác trên toàn cầu. Và với tư cách là một người nước ngoài sống tại Việt Nam, tôi luôn biết ơn cách các cơ quan chức năng và người Việt Nam đã bảo vệ tất cả chúng ta thoát khỏi cơn đại dịch này" - ông nói.
Cách Việt Nam xử lý khủng hoảng cũng đồng nghĩa với việc nhiều dự báo kinh tế cho rằng khi thế giới thoát ra khỏi khủng hoảng, Việt Nam sẽ là một hình ảnh đại diện từ những điều chúng ta đã làm xuyên suốt mùa dịch. Điều này còn được thể hiện qua những dự báo kinh tế khả quan cho năm tới.
Mặc dù đứng trước những trở ngại do đại dịch Covid-19 gây ra, Việt Nam vẫn ghi nhận mức tăng trưởng GDP 1,8% trong nửa đầu năm nay, và là một trong số những quốc gia hiếm hoi trên thế giới duy trì được đà tăng trưởng kinh tế. Lạm phát bình quân 11 tháng vừa qua tiếp tục được kiểm soát với mức tăng 3,51% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mục tiêu bình quân dưới 4% mà Quốc hội đề ra. Thành tựu này đạt được nhờ vào những nỗ lực của Chính phủ trong việc kiểm soát dịch bệnh và ngay cả khi đôi lần dịch bùng phát trở lại làm ảnh hưởng đến đất nước
Khối Nghiên cứu Kinh tế Toàn cầu HSBC dự báo kinh tế Việt Nam sẽ đạt mức tăng trưởng 2,6% trong năm 2020, từ đó tạo đà phát triển để đạt mức 8,1% trong năm 2021. Mặc dù tốc độ tăng trưởng của 2020 có thể nói là thấp nhất trong nhiều năm, Khối Nghiên cứu Kinh tế HSBC cho rằng Việt Nam là quốc gia duy nhất tại ASEAN có tăng trưởng dương năm nay. Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF đưa ra dự báo tăng trưởng của Việt Nam năm 2020 là 2,4% và nhận định Việt Nam là một trong bốn nền kinh tế thế giới có chỉ số GDP bình quân đầu người tăng trưởng, bên cạnh Đài Loan, Ai Cập và Trung Quốc.
Trong năm 2020, động lực cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam tiếp tục là khu vực chế biến chế tạo và xuất khẩu cùng với đầu tư trực tiếp nước ngoài luôn đóng vai trò quan trọng. Các chỉ số của tháng 11 cho thấy Việt Nam đang trên đà phục hồi kinh tế vững chắc. Sản xuất lần đầu tăng trưởng hai con số kể từ đầu mùa dịch, trong khi xuất khẩu tiếp tục tỏa sáng do các đơn hàng về điện tử. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tính chung 11 tháng năm 2020 ước tính tăng 3,1% so với cùng kỳ năm trước. Đối với xuất khẩu, tính chung 11 tháng năm 2020, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước tính đạt 254,6 tỷ USD, tăng 5,3% so với cùng kỳ năm trước.
Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng hơn với việc tham gia WTO và đã ký kết thành công 14 hiệp định tự do thương mại song phương và đa phương. Điều này trước tiên là động lực chính cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam, nhưng đồng thời cũng khiến nền kinh tế chịu ảnh hưởng khá nặng nề với khủng hoảng toàn cầu tương tự như dịch Covid-19 bùng phát vừa qua. Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam đã thể hiện được sức chống chịu vô cùng mạnh mẽ khi Tổ chức Y tế Thế giới WHO và các quốc gia khác đều đánh giá cao Việt Nam vì đã ứng phó thành công và hiệu quả trong việc xử lý đại dịch.
Điều đáng ghi nhận tiếp theo, theo CEO của HSBC Việt Nam, chính là sự thay đổi tự thân của các doanh nghiệp Việt Nam. Cộng đồng các doanh nghiệp không đầu hàng, khuất phục trước nghịch cảnh mà tìm mọi cách xoay xở để vượt qua những thách thức do dịch bệnh mang tới. Theo khảo sát HSBC Navigator vừa được giới thiệu đầu tháng 12, 68% doanh nghiệp Việt Nam tham gia khảo sát cho biết họ đã thực hiện các thay đổi nhằm đối phó với dịch bệnh. Bên cạnh đó, trong thời gian tới họ sẽ tiếp tục đầu tư vào các kênh bán hàng, nâng cao kỹ năng cho lực lượng lao động, trải nghiệm khách hàng và quản lý dòng tiền / vốn. Các doanh nghiệp cũng sẽ tiếp tục đầu tư vào công nghệ để cải thiện tốc độ tiếp cận thị trường, tiếp cận khách hàng mới và tăng cường tự động hóa / hiệu quả hoạt động.
Ông EVans cho biết thêm, điều đáng ghi nhận ở đây nữa không chỉ là sự tiếp tục tăng trưởng, mà sự hồi phục của Việt Nam ghi nhận những tiến bộ tới từ nội lực. Số liệu của Tổng cục thống kê cho thấy các chỉ số về chế biến chế tạo và thương mại dịch vụ đã liên tục tăng từ mức sụt giảm tại thời kỳ áp dụng giãn cách xã hội. Lĩnh vực xuất khẩu trong tháng 11 đã tăng 10,7% so với cùng kỳ năm trước sau khi đã có mức tăng trưởng 12,2% trong tháng 10. Trong khi sự suy yếu của ngành hàng dệt may và da giày trầm trọng hơn do bị ảnh hưởng bởi tình hình giãn cách xã hội trở lại trên toàn cầu thì việc tăng mạnh những lô hàng xuất khẩu thiết bị máy móc (tăng 62% so với cùng kỳ) và mặt hàng điện tử (tăng 6% so với cùng kỳ) đã phần nào bù trừ những sụt giảm những mặt hàng xuất khẩu dẫn dầu trên con đường phục hồi ổn định.
Mặc dù chỉ số PMI tháng 11 giảm xuống còn 49,9 điểm sau hai tháng tăng nhưng thực sự lại không có nghĩa là triển vọng sản xuất của Việt Nam ảm đạm. Lý do có thể giải thích điều này là do tình hình bão và lũ lụt vừa xảy ra làm ảnh hưởng tạm thời đến chỉ số. Ngoài ra, các đơn đặt hàng mới tiếp tục tăng và khoảng cách giữa đơn đặt hàng mới và hàng tồn kho vẫn ở mức tích cực. Do đó HSBC Việt Nam tiếp tục giữ triển vọng tích cực đối với ngành sản xuất của Việt Nam và cho cả nền kinh tế Việt Nam.
Một điểm sáng cho kinh tế Việt Nam năm 2020 là sự kiên định trong việc theo đuổi chính sách hội nhập của Chính phủ Việt Nam thể hiện ở việc ký kết Biên bản kết thúc đàm phán Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam Anh quốc (UKVFTA) vào ngày 11/12/2020, Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – EU (EVFTA) có hiệu lực vào tháng 8 và việc ký kết Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) vào tháng 11. Những Hiệp định này sẽ giúp đa dạng hóa thị trường xuất khẩu và đối tác thương mại của Việt Nam, một trong những hướng đi đúng đắn giúp giảm thiểu những cú sốc đến từ rủi ro phụ thuộc vào một đối tác thương mại cụ thể, điều trở nên rất rõ ràng khi dịch Covid-19 xảy tới. Sự mở rộng và đa dạng hóa hội nhập cũng khiến Việt Nam tiếp cận các nguồn vốn nước ngoài, giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam có tính cạnh tranh cao hơn.
Chính sách tiền tệ năm 2020
CEO HSBC Việt Nam cũng đánh giá về chính sách tiền tệ. Đứng trước biến cố khó lường là dịch bệnh Covid-19 kéo theo sự sụp đổ của chuỗi cung ứng trong nửa đầu năm 2020, cùng với những biến động lớn trên thị trường tài chính thế giới, NHNN đã tập trung điều hành các mục tiêu kinh tế vĩ mô xung quanh lạm phát, ổn định xã hội và vĩ mô, tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư trực tiếp nước ngoài, từ đó nâng cao tính ổn định và khả năng chống chịu của nền kinh tế.
Cụ thể, ngay từ những tháng đầu năm, NHNN đã chủ động hạ lãi suất điều hành, đảm bảo thanh khoản thị trường luôn ở mức dồi dào. Tính chung 11 tháng đầu năm, NHNN đã giảm ba lần đồng bộ các mức lãi suất điều hành với quy mô lớn, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng tiếp cận nguồn vốn thay thế với chi phí thấp hơn. NHNN cũng giảm 0,6% -0,75% /năm trần lãi suất huy động đối với tiền gửi kỳ hạn dưới sáu tháng; và giảm 1% /năm trần lãi suất cho vay ngắn hạn trong các lĩnh vực ưu tiên. Điều này đã góp phần đưa kinh tế địa phương phục hồi nhanh hơn.
Chính sách tài khóa
Mặc dù Việt Nam đã nổi lên mạnh mẽ hơn từ dịch Covid-19 so với các nước khác trong khu vực, tuy nhiên, nền kinh tế của Việt Nam cần hỗ trợ cho những doanh nghiệp và người tiêu dùng khó khăn đó. Mặc dù Việt Nam không thể thực hiện các gói kích thích tài khóa lớn, nhưng Việt Nam đã đưa ra một số hỗ trợ có mục tiêu và ngắn hạn, chủ yếu bao gồm hoãn thuế và gói an sinh xã hội trực tiếp cho các hộ nghèo. Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam gần đây đã đề xuất gói kích thích thứ hai, bao gồm hỗ trợ tài chính cho lĩnh vực hàng không (trị giá 11 ngàn tỷ VND) và du lịch, cũng như gói an sinh xã hội hơn 3,6 ngàn tỷ đồng. Với mức độ nhỏ hơn nhiều so với gói kích thích đầu tiên, chúng tôi không kỳ vọng gói kích thích lần này sẽ có tác động đáng kể đến tình hình tài khóa tổng thể của Việt Nam. Chính phủ dự kiến mức thâm hụt ngân sách ở mức 5-5,6% GDP, phù hợp với kỳ vọng của chúng tôi nhưng vượt mục tiêu ban đầu là 3,4%. Trong giai đoạn 2021-2025, Chính phủ đặt mục tiêu bội chi ngân sách bình quân khoảng 3,7%, cụ thể năm 2021 là 4% trước khi giảm xuống còn 3,4% vào năm 2025.
Đáng chú ý là Chính phủ đã đưa ra mục tiêu khiêm tốn là tăng 1,4% chi tiêu cho cơ sở hạ tầng vào năm 2021. Điều này cho thấy khả năng Chính phủ không sử dụng ngân sách công để tài trợ cho các dự án cơ sở hạ tầng lớn mà sử dụng hình thức hợp tác công tư PPP, đây là một mô hình lý tưởng để Việt Nam cân đối giữa mục tiêu phát triển cơ sở hạ tầng đầy tham vọng và ngân sách tài khóa hạn hẹp. Trên thực tế, Chính phủ đã tìm kiếm sự hỗ trợ song phương và đa phương từ Mỹ, Nhật Bản, Australia và Ngân hàng Thế giới WB.
HSBC Việt Nam tiếp tục giữ triển vọng tích cực đối với ngành sản xuất của Việt Nam và cho cả nền kinh tế Việt Nam (ảnh minh họa)
Những điều cần lưu ý
CEO của HSBC Việt Nam cũng đưa ra những điểm cần lưu ý với kinh tế Việt Nam. Theo đó, cuộc khủng hoảng Covid-19 tiếp tục có tác động tiêu cực đến nền kinh tế toàn cầu mặc dù trong những ngày này chúng ta đã nghe nhiều tin vui về nhiều loại khác nhau. Thật vậy, tác động của dịch bệnh diễn ra vẫn khó dự đoán lên nền kinh tế toàn cầu, nhưng chúng ta có thể hình dung được sức ép lên tài chính công sẽ gia tăng do thu ngân sách giảm xuống trong khi chi ngân sách tăng lên do Chính phủ gia tăng gói kích cầu để giảm thiểu tác động của đại dịch đối với các hộ gia đình và doanh nghiệp.
Mặc dù Việt Nam là một ngôi sao sáng về tăng trưởng, song ông Evans cho rằng vẫn có một số rủi ro cho Việt Nam nếu chúng ta không kịp thời hành động và nắm bắt thời cơ.
Thứ nhất là vấn đề đã được nhắc tới trong những năm gần đây. Mặc dù đã có nhiều tiến bộ đáng được ghi nhận, Chính phủ cần tiếp tục đẩy mạnh việc cổ phần hóa các công ty nhà nước. Tôi không cần nhắc lại nguy cơ cổ phần hóa tiến triển chậm rất có thể là một yếu tố làm giảm khả năng tăng trưởng của Việt Nam trong tương lai. Hiện tại, các công ty nhà nước vẫn chi phối tới một phần ba nền kinh tế. Việc cổ phần hóa các công ty nhà nước sẽ giúp xác định lại việc phân bổ vốn đầu tư, giải phóng năng suất lao động và hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, theo World Bank, đầu tư cơ sở vật chất tính theo phần trăm GDP của Việt Nam nằm trong nhóm thấp nhất trong khu vực ASEAN. Điều này tạo ra những thách thức đối với sự phát triển liên tục của các dịch vụ cơ sở hạ tầng hiện đại cần thiết cho giai đoạn tăng trưởng tiếp theo (Việt Nam xếp thứ 89 trong số 137 quốc gia về chất lượng cơ sở hạ tầng).
Điểm thứ ba liên quan tới đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI, động lực phát triển của Việt Nam. Như trên đã nói, FDI tăng trưởng bền vững là một trong những điểm đáng tự hào, nhưng sẽ tốt hơn rất nhiều nếu chúng ta cải thiện được các thủ tục thuế quan và hành chính vốn đang là yếu tố cản trở sự phát triển của khu vực này. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới WB, các doanh nghiệp Việt Nam phải thanh toán thuế 6 lần thanh toán thuế một năm, tiêu tốn 384 giờ cho việc hoàn thành các mẫu biểu, chuẩn bị và trả thuế, và mức thuế phải trả chiếm tới 37,6% lợi nhuận.
Điều cuối cùng là tăng trưởng bền vững. Theo ông Evans, điều xảy ra với Việt Nam cũng tương tự như con đường nhiều nước đang phát triển đi qua đó là tăng trưởng và công nghiệp hóa nhanh để lại nhiều tác động tiêu cực đối với môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Với nhu cầu cho sản xuất và sinh hoạt, tổng mức tiêu thụ điện đang gia tăng nhanh hơn mức tăng sản lượng điện. Với sự phụ thuộc ngày càng tăng vào nhiên liệu hóa thạch, ngành năng lượng phát thải gần hai phần ba tổng phát thải khí nhà kính của cả nước. Nhu cầu cấp thiết là phải đẩy nhanh quá trình chuyển đổi năng lượng sạch. Nhưng điều tích cực là Chính phủ đã nhận thức tầm quan trọng của vấn đề và đang nỗ lực giảm thiểu tác động của tăng trưởng lên môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu một cách hiệu quả. Các chiến lược và kế hoạch thúc đẩy tăng trưởng xanh và khai thác bền vững tài nguyên thiên nhiên đã được áp dụng.
Nhìn về tương lai
Việt Nam được kỳ vọng sẽ kết thúc năm 2020 với mức tăng trưởng dương. Bước sang năm 2021, Việt Nam sẽ tiếp tục đà hồi phục nhờ được hưởng lợi từ sự phục hồi của tiêu dùng trong nước, tăng trưởng thương mại ổn định và nhờ vào dòng vốn FDI. Trong khi đó, với bối cảnh tiêu dùng chịu ảnh hưởng tiêu cực của dịch bệnh, lạm phát sẽ tiếp tục được kiểm soát ở dưới mức bình quân 4% mà Quốc hội đề ra.
Các hiệp định thương mại đã kết thúc đàm phán, đã được ký hay đã có hiệu lực như UKVFTA, EVFTA hay RCEP sẽ tiếp tục là tiền đề vững chắc để thúc đẩy tăng trưởng cho lĩnh vực xuất khẩu, đẩy mạnh thặng dư thương mại. Trong khi đó, với nền tảng kinh tế vĩ mô vững chắc và khả năng đẩy lùi dịch bệnh, không khó để thấy Việt Nam sẽ tiếp tục là điểm đến đầu tư sáng giá trong khu vực, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất linh kiện điện tử-công nghệ.
Về bức tranh tỷ giá trong năm 2021, ông Evans cho rằng tỷ giá tiếp tục được điều hành theo cơ chế linh hoạt. Đáng chú ý, với việc dự trữ ngoại hối cao kỷ lục, NHNN có đủ công cụ và nguồn lực để điều hành tỷ giá theo hướng ổn định, đáp ứng cung-cầu thị trường. Tuy nhiên, vẫn có những thách thức cần quan sát và theo dõi như lộ trình phân phối vaccine cho Covid-19, đà hồi phục của chuỗi cung ứng toàn cầu, quá trình chuyển giao bầu cử Tổng thống Mỹ, …
Trong bối cảnh tỷ giá biến động khó lường, các doanh nghiệp, đặc biệt với các doanh nghiệp có yếu tố xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp có khoản vay nước ngoài bằng ngoại tệ, cần chủ động sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro, đặc biệt thông qua các sản phẩm phái sinh tiền tệ như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng hoán đổi lãi suất, … để đảm bảo sự chủ động trong hoạch định dòng tiền và cân đối lợi nhuận.
Và ông kết luận, tham gia các hiệp định tự do thương mại hay mở cửa đồng nghĩa với gia tăng cạnh tranh nhưng cạnh tranh với những người giỏi nhất chính là cơ hội để học hỏi. Điều đó buộc các công ty phải nhanh nhẹn, luôn điều chỉnh và phải đổi mới. Người Việt Nam rất mạnh mẽ, rất chăm chỉ và sáng tạo vô cùng, nếu các công ty nắm bắt được những đặc điểm này, tự tin cạnh tranh và thường xuyên học hỏi thì không có lý do gì khiến các doanh nghiệp Việt Nam không thể thành công.