Hiệp định Thương mại tự do (EVFTA) vừa được Quốc hội biểu quyết thông qua tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIV. Phóng viên đã có cuộc trao đổi với TS. Cấn Văn Lực - Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính tiền tệ quốc gia để tìm hiểu về cơ hội cũng như thách thức mà ngành Ngân hàng sẽ phải đối mặt trong thời gian tới khi Hiệp định EVFTA chính thức có hiệu lực.
Tiến sĩ Cấn Văn Lực. |
Ông có thể đánh giá cơ hội đối với ngành Ngân hàng khi Việt Nam tham gia EVFTA?
Tôi cho rằng, Hiệp định EVFTA có tác động cả trực tiếp lẫn gián tiếp đối với các ngân hàng Việt Nam. Về tác động trực tiếp tôi thấy có hai nội dung cần lưu tâm. Nội dung đầu tiên là trong vòng 5 năm đầu sau khi EVFTA có hiệu lực, ngoại trừ 4 NHTMCP có sở hữu Nhà nước là BIDV, VietinBank, Vietcombank và Agribank, Việt Nam cam kết sẽ xem xét cho phép các TCTD khu vực EU mua đến 49% cổ phần của hai NHTMCP Việt Nam (theo quy định hiện nay tối đa là 30%). Theo tôi, trong ngắn hạn, quy định này dự báo tác động không nhiều đến dòng vốn của EU vào thị trường ngân hàng Việt Nam bởi hiện, các NĐT nước ngoài ở châu Âu gần đây có xu hướng thoái vốn. Mặc dù vậy, điều đó vẫn mở ra cơ hội cho các NHTMCP, nhất là đối với các ngân hàng đang cần tăng vốn để đáp ứng chuẩn Basel II.
Một quy định có thể tác động trực tiếp nữa là cam kết mở cửa thị trường với các dịch vụ tài chính mới và cho phép các nhà cung cấp dịch vụ tài chính EU thành lập tại Việt Nam tiếp cận dịch vụ thanh toán… Quy định này dự kiến có tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến lĩnh vực Fintech và Mobile Money. Đây cũng là động lực để các Fintech và ngân hàng Việt Nam đổi mới, đẩy nhanh tiến trình tài chính số và thanh toán không dùng tiền mặt trong bối cảnh hậu dịch Covid-19.
Còn tác động gián tiếp, theo báo cáo của World Bank công bố tháng 5/2020 ước tính, EVFTA có thể giúp GDP Việt Nam tăng thêm 2,4% và xuất khẩu tăng 12% vào năm 2030. Theo đó làm tăng nhu cầu sử dụng dịch vụ tài chính của doanh nghiệp và người dân, đặc biệt nhu cầu đối với hoạt động tín dụng, thanh toán, tài trợ thương mại, bảo lãnh, Fintech… Ngoài ra, hoạt động xuất khẩu, đầu tư mở rộng sẽ giúp gia tăng lượng ngoại tệ, cải thiện dự trữ ngoại hối, ổn định tâm lý thị trường và tỷ giá hối đoái.
Vậy còn những thách thức đối với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam, thưa ông?
Như đã nói ở trên, việc mở cửa thị trường tài chính mở ra những cơ hội lớn nhưng cũng tạo ra áp lực không nhỏ trước sự cạnh tranh ngày càng lớn từ các tổ chức tài chính EU, nhất là các sản phẩm có hàm lượng công nghệ, số hóa lớn. Các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt, thanh toán di động, tiền kỹ thuật số… vốn đã phát triển mạnh tại châu Âu có thể trở thành xu hướng, phổ biến tại thị trường Việt Nam.
Không chỉ từ bên ngoài, sức ép từ nhu cầu đối với dịch vụ tài chính ngày càng cao của khách hàng đòi hỏi các tổ chức tài chính, ngân hàng Việt Nam phải nhanh chóng chuyển mình, đổi mới, sáng tạo để thích ứng với biến đổi của thị trường. Việc thu hút dòng vốn ngoại mặc dù đem lại những lợi ích như đã nói ở trên, nhưng cũng tiềm ẩn thách thức đối với hoạt động ngân hàng trong nước. Đó là nguy cơ bị thâu tóm, sáp nhập nếu quản trị không tốt, không có biện pháp phòng ngừa; rủi ro pháp lý do kiện tụng, tranh chấp tăng lên…
Theo ông, thời gian tới cần có giải pháp gì để ngành Ngân hàng vượt qua thách thức và nắm bắt được cơ hội từ EVFTA này?
Tôi cho rằng, thời gian tới, Chính phủ, các bộ, ngành tiếp tục rà soát, hoàn thiện thể chế, văn bản pháp luật liên quan nhằm tạo môi trường thuận lợi để giúp ngân hàng “chơi” trong sân chơi lớn hơn một cách an toàn, hiệu quả.
Theo đó, cần nhất quán, điều chỉnh phù hợp các luật liên quan như Luật Doanh nghiệp, Luật Kinh doanh chứng khoán - bảo hiểm, Luật Các TCTD nhằm tăng tính tự chủ, minh bạch của các tổ chức tài chính, bổ sung quy định hoạt động mới như ngân hàng đầu tư, bancassurance phù hợp với cam kết hội nhập quốc tế. Thời gian tới, sớm hoàn thiện luật định quản lý mô hình kinh doanh mới trên nền tảng công nghệ như cho vay ngang hàng, Fintech, xác thực điện tử E-KYC… theo hướng tạo điều kiện song vẫn đảm bảo kiểm soát rủi ro. Các chính sách đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu thị trường tài chính - ngân hàng, lành mạnh hóa các tổ chức tài chính, đưa các chuẩn mực hoạt động kế toán, quản trị doanh nghiệp, quản lý rủi ro… hướng tới đạt chuẩn thông lệ quốc tế là rất cần thiết. Song song với đó tăng cường thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro, thực thi chế tài nghiêm minh đối với các vi phạm trên thị trường, tạo thuận lợi để phát triển thương mại, dịch vụ và hội nhập toàn cầu.
Còn đối với các ngân hàng Việt Nam, theo tôi, tiếp tục đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu hoạt động nhằm nâng cao tính ổn định, phát triển bền vững, tăng khả năng chống chịu trước các cú sốc từ bên ngoài. Trong đó khẩn trương hoàn thiện và vận hành theo bộ khung quản trị công ty cũng như nghiên cứu, tạo nền tảng phát triển mô hình ngân hàng đầu tư - hoạt động có nhiều tiềm năng trong điều kiện hội nhập.
Một vấn đề quan trọng nữa các ngân hàng nên tập trung phát triển ngân hàng số, tìm hiểu, nắm bắt xu hướng thị trường, nghiên cứu các sản phẩm đã phổ biến tại thị trường EU nhưng vẫn còn khá mới mẻ với Việt Nam như tiền kỹ thuật số, thanh toán di động… Đồng thời, các định chế tài chính Việt Nam cần sớm nâng cấp hệ thống công nghệ, xây dựng đội ngũ chuyên gia, đáp ứng yêu cầu bảo mật, an toàn thông tin, dữ liệu trong hoạt động.
Việc nghiên cứu các sản phẩm theo chuỗi giá trị để gia tăng sự liên kết giữa các khách hàng với các tổ chức tài chính cũng rất quan trọng. Trong thời gian tới, các ngân hàng nên rà soát, điều chỉnh hoạt động phù hợp ưu tiên xu hướng “tài chính xanh - ngân hàng xanh”. Đây là mảng mà thị trường châu Âu rất phát triển đồng thời cũng là chủ trương, định hướng khuyến khích của Chính phủ và NHNN Việt Nam. Đặc biệt, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chú trọng đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực theo các tiêu chuẩn của khu vực và quốc tế, nhất là đội ngũ lãnh đạo, quản lý cấp cao, cấp trung…
Xin cảm ơn ông!
Theo Thời báo Ngân hàng