Ông Nirukt Sapru |
Nhìn nhận của ông về triển vọng kinh tế Việt Nam?
Tôi cho rằng trong bối cảnh đại dịch Covid-19 hoành hành trên khắp toàn cầu, việc Việt Nam đối phó và kiểm soát thành công là rất đáng ngưỡng mộ. Về trung và dài hạn triển vọng kinh tế Việt Nam là rất sáng sủa. Nhưng trong ngắn hạn các vấn đề như tác động của đại dịch Covid-19, căng thẳng thương mại khiến nguy cơ toàn cầu đối mặt với suy giảm tăng trưởng kinh tế, sụt giảm trong thương mại, đầu tư thì Việt Nam cũng sẽ chịu những ảnh hưởng nhất định.
Tiêu dùng nội địa đã bắt đầu phục hồi nhưng còn chậm. Bên cạnh đó, tăng trưởng của Việt Nam vốn dựa khá nhiều vào đầu tư FDI để sản xuất xuất khẩu và vào du dịch, trong khi những lĩnh vực này vẫn đang rất khó khăn vì đại dịch Covid-19 nên rõ ràng sẽ cần thêm thời gian để phục hồi.
Dòng vốn vào Việt Nam sẽ tiếp tục gia tăng tốt trong trung hạn. Tuy nhiên, bối cảnh chung hiện nay trên toàn cầu là dòng vốn FDI đang suy giảm, dù có những dịch chuyển đang diễn ra và rất có thể một phần dòng vốn từ những dịch chuyển đó sẽ vào Việt Nam. Bên cạnh đó, cũng còn một số vấn đề cần giải quyết để dòng đầu tư vào tốt hơn. Đơn cử liên quan đến vấn đề quyền sở hữu trí tuệ. Nếu nhìn vào các nước mà Việt Nam đã và đang muốn thu hút đầu tư thì một trong những thách thức mà họ lo ngại chính là vấn đề này. Vì vậy trong thời gian tới, Việt Nam cần thể hiện sự vượt trội hơn các nước khác trong vấn đề này.
Ông có thể đưa ra những dự báo cụ thể hơn cho 6 tháng cuối năm nay, giai đoạn rất quan trọng hậu Covid-19?
Rất khó để đưa ra những dự báo cụ thể như tăng trưởng kinh tế năm nay ở mức nào, khả năng phục hồi của lĩnh vực xuất khẩu hay ngành du lịch ra sao… vì thực sự cũng có nhiều thách thức và khó khăn khó đoán định. Tôi chỉ có thể nói một điều là, với việc kiểm soát Covid-19 rất tốt, nền kinh tế đang đi rất đúng hướng.
Vấn đề ở đây là không chỉ Việt Nam mà nền kinh tế toàn cầu đang gặp phải nhiều thách thức. Đơn cử như dự báo về tăng trưởng du dịch – vốn cũng tác động rất lớn đến tăng trưởng kinh tế – như thế nào cũng rất khó. Bởi nếu Việt Nam không mở cửa trở lại cho khách du lịch nước ngoài thì nền kinh tế gánh chịu những thiệt hại, như các khách sạn sẽ vắng khách, ngành hàng không sẽ tiếp tục khó khăn. Nhưng nếu mở cửa thì lại tiềm ẩn nguy cơ dịch bệnh tái bùng phát. Thế nên làm thế nào để có được sự cân bằng sẽ là một quyết định không dễ dàng.
Ngân hàng cũng là DN, cũng đang gặp khó khăn do dịch bệnh Covid-19 gây ra |
Ông vừa nói đến các thách thức, cụ thể ở đây là gì?
Tôi cho rằng thách thức ngắn hạn cũng khá nhiều, nhưng nổi lên là sụt giảm sản xuất, xuất khẩu, du lịch… và những rủi ro đó dẫn đến một nguy cơ lớn hơn là thất nghiệp. Như tôi đã nói, với các DN có nền tảng số hóa tốt và các công việc mà nhân viên có thể giải quyết từ xa thì hoạt động của DN sẽ không bị ảnh hưởng nhiều, đồng nghĩa với khả năng không hoặc ít phải cho người lao động nghỉ việc. Nhưng không phải DN nào, lĩnh vực nào cũng có thể làm như vậy và hơn nữa còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như sức cầu của thị trường.
Tất nhiên đây không phải chỉ là vấn đề của Việt Nam hiện nay mà cả thế giới cũng đang phải đối mặt với tình trạng như vậy. Vì vậy, dù không thể phủ nhận là Việt Nam đang làm rất tốt để phục hồi nền kinh tế nhưng rõ ràng cũng chịu ảnh hưởng từ bên ngoài. Ví dụ hàng hóa sản xuất để xuất khẩu vào các thị trường như Mỹ hay châu Âu, nhưng do dịch bệnh khiến thất nghiệp ở các nước khu vực này đang gia tăng, tiêu dùng của người dân ở các thị trường này sụt giảm thì xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam tất nhiên sẽ gặp khó… Chính vì những thách thức như vậy nên rất khó để đưa ra những dự báo cụ thể.
Còn với khu vực ngân hàng, theo ông đâu là thách thức chính hiện nay?
Lĩnh vực ngân hàng có thể coi là tấm gương phản ánh nền kinh tế và hoạt động của cộng đồng DN. Nếu nền kinh tế và DN hoạt động tốt lên thì cũng có nghĩa là ngân hàng hoạt động tốt lên. Vì thế khi thời điểm hiện nay được xem là thách thức với nền kinh tế thì nó cũng là thách thức với hệ thống ngân hàng. Nhưng nền kinh tế hồi phục càng nhanh thì hệ thống ngân hàng cũng hồi phục càng nhanh.
Với các ngân hàng hiện nay, tôi nghĩ có hai thách thức lớn là lợi nhuận giảm đi trong khi chi phí tăng lên. Nên vấn đề đặt ra là cần tiết giảm được chi phí, đồng thời đẩy mạnh đầu tư để đẩy nhanh được quá trình số hóa. Đợt dịch Covid-19 và giãn cách xã hội vừa qua cho thấy, khách hàng ngày càng cảm thấy thoải mái với việc sử dụng các dịch vụ ngân hàng số mà không cần tới giao dịch tại ngân hàng. Xu thế sử dụng các dịch vụ qua mobile và các nền tảng số khác để thực hiện các giao dịch ngân hàng như vậy sẽ ngày càng phổ biến.
Làm sao đẩy nhanh số hóa nền kinh tế là yêu cầu đặt ra và điều này càng đúng trong lĩnh vực ngân hàng. Đại dịch Covid-19 đã cho thấy một điều là, những DN có mức độ số hóa cao chính là những DN ít chịu ảnh hưởng của dịch nhất. Ví dụ với những tổ chức có số lượng nhân viên làm lên đến cả hàng nghìn người trong lĩnh vực ngân hàng như chúng tôi, thì việc làm sao duy trì được hiệu quả công việc trong bối cảnh giãn cách xã hội vừa qua là một vấn đề không dễ giải quyết. Nhưng nhờ mức độ số hóa cao nên mặc dù có tới 85-90% “quân số” làm việc từ xa, nhưng chúng tôi vẫn đảm bảo được hiệu quả công việc. Và cả cho đến giai đoạn hiện nay, khi tại Việt Nam không còn phải thực hiện các giãn cách xã hội như nhiều nước khác thì chúng tôi vẫn khuyến khích các nhân viên của mình làm việc tại nhà, miễn là đảm bảo hiệu quả. Đó chính là một trong những lợi ích mà số hóa mang lại.
Hiện chỉ số số hóa của Việt Nam đã có những cải thiện rất đáng kể trong thời gian vừa qua. Tốc độ Internet cao hay mạng 4G mạnh là những ví dụ. Nhưng chúng ta cần tiếp tục thúc đẩy hơn nữa, đặc biệt thông qua hệ thống pháp luật và các quy định. Như trong lĩnh vực ngân hàng, quy định về định danh khách hàng theo phương thức điện tử (e-KYC) là rất quan trọng để các ngân hàng triển khai số hóa, cải thiện chất lượng dịch vụ phục vụ khách hàng trong thời gian tới.
Xin cảm ơn ông!
Theo Thời báo Ngân hàng