Nền kinh tế Việt Nam trong 20 năm qua đã chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ cả về kim ngạch thương mại lẫn cơ cấu ngành.
Các chỉ số xuất khẩu của Việt Nam đang chứng kiến sự tăng trưởng mạnh bất chấp tình hình dịch bệnh. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đạt 212,55 tỷ USD, tăng 21,2% so với cùng kỳ năm ngoái là 80 tỷ USD.
Việt Nam đang tiếp tục chuyển đổi từ các ngành công nghiệp thâm dụng lao động sang các ngành công nghiệp có giá trị cao |
Trong đó, điện thoại và linh kiện có mức tăng trưởng 13%, đây cũng là nhóm ngành có kim ngạch xuất khẩu cao nhất chiếm 16,8%, đạt 35,7 tỷ USD. Nhóm ngành này đang dẫn đầu về mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam từ năm 2016 đến tháng 8/2021.
Xét về tốc độ tăng trưởng, nhóm ngành điện tử, máy tính và linh kiện vẫn duy trì được đà tăng trưởng từ năm ngoái, đạt mức 15,8%, tương ứng với 31,3 tỷ USD. Đáng chú ý, giá trị xuất khẩu của nhóm ngành này ghi nhận sự bứt phá khi vượt qua hàng dệt may từ năm 2019 đến nay. Cụ thể, kim ngạch xuất khẩu của dệt may và giày dép chiếm tỉ trọng nhỏ hơn so với cùng kỳ năm ngoái, lần lượt ở mức 10% và 6%.
Có thể thấy, sau điện thoại và linh kiện, nhóm ngành xuất khẩu chủ lực đang chuyển dần từ mặt hàng giá trị gia tăng thấp như quần áo và giày dép sang những sản phẩm mang lại giá trị cao hơn như điện tử và linh kiện. Nói cách khác, tỷ trọng sản xuất - xuất khẩu của Việt Nam cho thấy sự thay đổi về định hướng của ngành công nghiệp.
Không chỉ xuất khẩu, xét về vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, ngành sản xuất và chế tạo đang ghi nhận giá trị năm 2021 chiếm 53,4% tổng vốn, tăng 16,45% so với cùng kỳ. Cụ thể, lượng vốn đầu tư FDI đạt 11,83 tỷ USD với 402 dự án mới được phê duyệt.
Xét về bức tranh FDI của ngành trong vòng một thập kỷ vừa qua, Việt Nam đang phát triển theo một chuỗi giá trị. Trong đó, ngành thiết bị điện tử chiếm tỷ trong cao nhất ở mức 19,29% tổng vốn. Tiếp theo sau là điện tử và máy tính với 17,14%. Giấy, nhựa và cao su lần lượt chiếm 14,66% và 13,54%. Trong khi đó, các mặt hàng dệt may, may mặc và thực phẩm chỉ ghi nhận vốn đầu tư dưới 4% cho mỗi ngành.
Hiện miền Bắc đang thu hút nhiều vốn đầu tư trong lĩnh vực sản xuất, tập trung vào nhóm ngành thiết bị điện tử. Trong 9 tháng đầu năm 2021, ngành sản xuất khu vực phía Bắc nhận được nhiều vốn FDI đăng ký mới nhất cả nước, đạt 3,99 tỷ USD và chiếm 72,92%. Trong đó, thiết bị điện dẫn đầu các ngành hàng với mức đầu tư chiếm tỷ trọng 18%. Theo sau là máy tính và điện tử với 16%.
Bên cạnh đó, 4 trên 5 dự án đầu tư lớn vào vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc trong 9 tháng đầu năm đều tới từ nhóm ngành có giá trị gia tăng cao. Khu công nghiệp Amata Quảng Ninh ghi nhận nguồn vốn hơn 498 triệu USD đến từ nhà đầu tư Jinko Solar cho lĩnh vực thiết bị điện. Khu công nghiệp Quang Châu của Bắc Giang được 2 nhà đầu tư lớn là Foxconn Technology và JA Solar Investment rót vốn lần lượt là hơn 270 triệu USD và hơn 269 triệu USD. Theo sau là BYD Electronics với hơn 269 triệu USD tại KCN Phú Hà, Phú Thọ.
Trong khi đó, tình hình sản xuất ở vùng kinh tế phía Nam cho thấy một bức tranh khác. So với miền Bắc, các dự án đầu tư tại miền Nam trong 9 tháng đầu năm có quy mô vốn nhỏ hơn, vẫn tập trung chủ yếu ở các ngành sản xuất, chế tạo truyền thống. Nguồn vốn FDI đăng ký mới được phân bổ đồng đều cho các lĩnh vực nhựa và cao su, dệt may, thực phẩm, giấy và may mặc, quanh mức 2-3% mỗi ngành.
Trong số 5 dự án công nghiệp lớn nhất đầu tư vào miền, thực phẩm và đồ uống nhận được tổng vốn đầu tư lớn nhất với Khu công nghiệp Protrade Bình Dương nhận 78 triệu USD từ IDL Coffee Holdings và Khu công nghiệp Becamex Bình Phước nhận trên 36 triệu USD.
Theo sau là ngành sản phẩm từ kim loại và giấy với 60 triệu USD cho mỗi ngành tại 2 khu công nghiệp Minh Hưng, Bình Phước và Lộc An-Bình Sơn, Đồng Nai. Khu công nghiệp Thành Công, Tây Ninh nhận 48 triệu USD cho ngành dệt may từ Top Sports Textiles.
Lý giải cho sự chuyển dịch của sản xuất sang các ngành công nghiệp có giá trị cao, ông John Campbell, Quản lý bộ phận Bất động sản công nghiệp, Savills Việt Nam cho rằng, trong 20 năm qua, nhờ tốc độ tăng trưởng ổn định, nền kinh tế đi theo hướng xuất khẩu, sự gia tăng của các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA), lực lượng lao động trẻ, các chính sách ưu đãi đầu tư cùng với vị trí địa lý chiến lược, Việt Nam đã trở thành một trong những trung tâm sản xuất thu hút được sự chú ý nhiều nhất trong khu vực châu Á.
Tuy nhiên, thời gian gần đây, Việt Nam không còn áp dụng các chính sách ưu đãi như trước, nên việc tìm kiếm nguồn lao động cũng như đất đai giá rẻ tại Việt Nam trở nên khá khó khăn. Trong khi đó, nhà đầu tư của những ngành công nghiệp có giá trị cao tại nước ngoài vẫn lạc quan về sự tăng trưởng dài hạn của Việt Nam.
Đó chính là lý do khiến, Việt Nam vẫn đang tiếp tục chuyển đổi từ các ngành công nghiệp thâm dụng lao động sang các ngành công nghiệp có giá trị cao, bất chấp một năm 2021 đầy thách thức. Các ngành công nghiệp giá trị thấp đang dần dần hình thành ở những khu vực khác tại Đông Nam Á.
Đồng quan điểm, ông Matthew Powell, Giám đốc Savills Hà Nội chia sẻ: “Các doanh nghiệp hiện nay đang chú trọng nâng cao công nghệ và đẩy mạnh sản xuất theo chuỗi giá trị, chuyển sang mô hình sản xuất sạch và sản phẩm công nghệ cao nhằm thích ứng với nhu cầu từ khách hàng. Việc phát triển các ngành hàng trong chuỗi giá trị sẽ thúc đẩy quá trình hiện đại hóa nền công nghiệp Việt Nam".
Nghiên cứu của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cũng chỉ ra rằng, lĩnh vực sản xuất có thể đạt mức tăng trưởng 16% trong các chiến lược 4.0 vào năm 2030 nếu các doanh nghiệp vừa và nhỏ bắt đầu triển khai các công nghệ cấp trung bình. Thêm vào đó, công nghệ mới có thể giúp lĩnh vực này tăng thêm 7-14 tỷ USD trong tương lai.
Để nâng cao năng lực sản xuất, các doanh nghiệp đang tích hợp các công nghệ mới nổi tại nhà máy như trí tuệ nhân tạo hay in mô hình 3D. Hiện tại, Vingroup đã bắt đầu sử dụng 1.200 robot ABB trong một số quy trình hàn của mình.