Nợ xấu tại các tổ chức tín dụng đang có dấu hiệu dâng cao khi dịch bệnh Covid-19 kéo dài, số doanh nghiệp (DN) ngừng kinh doanh lớn.
Cần thiết duy trì chính sách xử lý nợ xấu
Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam vừa có văn bản đề nghị các Tổ chức hội viên tập trung nghiên cứu và tham gia ý kiến đối với Dự thảo đề nghị xây dựng Luật Xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (TCTD).
Ngân hàng Nhà nước đang lấy ý kiến đối với Dự thảo đề nghị xây dựng Luật Xử lý nợ xấu (Ảnh internet) |
Theo đánh giá của Hiệp hội này, việc xây dựng Luật Xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm rất quan trọng đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Theo Dự thảo Tờ trình gửi Chính phủ đề nghị xây dựng Luật xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng của Ngân hàng Nhà nước, tổng nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42 của toàn hệ thống các TCTD đến 31/12/2020 là 440,4 nghìn tỷ đồng, giảm 4,29% so với cuối năm 2019. Lũy kế từ 15/08/2017 đến 31/12/2020, đã xử lý được 331,87 nghìn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42.
Tổng số nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 được xử lý từ 15/8/2017 đến 31/12/2020 đạt trung bình khoảng 8 ngàn tỷ đồng/tháng, cao hơn 4,57 nghìn tỷ đồng/tháng so với kết quả xử lý nợ xấu nội bảng trung bình tháng từ năm 2012 – 2017 của hệ thống các TCTD trước khi Nghị quyết 42 có hiệu lực (khoảng 3,52 nghìn tỷ đồng/tháng).
Trước khi có Nghị quyết 42, nợ xấu của toàn hệ thống các TCTD chủ yếu được xử lý bằng dự phòng rủi ro cũng như thông qua các biện pháp xử lý tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, kể từ khi Nghị quyết 42 có hiệu lực từ 15/8/2017 đến 31/12/2020, xử lý nợ xấu nội bảng xác định theo Nghị quyết số 42 thông qua hình thức khách hàng trả nợ là 129,82 nghìn tỷ đồng (chiếm 39,11% tổng nợ xấu theo Nghị quyết số 42 đã xử lý), cao hơn nhiều tỷ trọng nợ xấu được xử lý do khách hàng tự trả nợ/tổng nợ xấu đã xử lý trung bình năm từ 2012-2017 là khoảng 22,8%.
Ngân hàng Nhà nước nhận định, trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 bùng phát mạnh tiếp tục ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế - xã hội toàn cầu và Việt Nam, gây tác động tiêu cực đến kết quả sản xuất, kinh doanh của các DN. Điều này dẫn đến khả năng trả nợ của khách hàng vay suy giảm, nợ xấu của các TCTD có khả năng tăng, do đó việc kiểm soát tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống các TCTD dưới 2% là thách thức không nhỏ với ngành ngân hàng.
Nghị quyết 42 là Nghị quyết thí điểm nên hiệu lực chỉ kéo dài 5 năm, đến ngày 15/8/2022 sẽ hết hiệu lực thi hành. Khi hết hiệu lực thi hành, toàn bộ cơ chế về xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 sẽ chấm dứt, việc xử lý nợ xấu của TCTD sẽ thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan.
Điều này sẽ tác động lớn đến quá trình xử lý nợ xấu của các TCTD/VAMC, cũng như quá trình tái cơ cấu TCTD. Ngân hàng Nhà nước khẳng định việc ban hành Luật để tiếp tục duy trì các chính sách xử lý nợ xấu là cần thiết.
Áp lực lớn
Theo các chuyên gia, cần sớm luật hoá Luật xử lý nợ xấu, nâng tầm Nghị quyết 42 thành luật. Cụ thể, theo TS. Cấn Văn Lực, tỷ lệ nợ xấu tại các ngân hàng đang trong khoảng 1-3%, nghĩa là 97-99% khách vay vốn là khách hàng tốt. Tuy nhiên, việc có thể xử lý các khoản nợ xấu hiệu quả sẽ giúp chi phí, thủ tục vay vốn được tốt hơn rất nhiều.
TS Lực cũng chỉ ra nhiều điểm bất cập còn tồn tại sau hơn 3 năm triển khai Nghị quyết 42 như: Sự phối kết hợp chưa đồng bộ giữa các cơ quan chức năng, nhiều vướng mắc trong xử lý tài sản đảm bảo, khó khăn trong khâu định giá và thẩm định giá khoản nợ, thiếu vắng một thị trường mua bán nợ chính thức…
Chưa kể nợ xấu là vấn đề liên tục, luôn hiện hữu của ngành ngân hàng. Do vậy cần hoàn thiện và hệ thống hóa các quy định pháp luật liên quan đến nợ xấu.
Đồng quan điểm, Luật sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Công ty Luật ANVI cũng cho rằng, các quy định pháp luật đã có tác dụng rất tốt trong việc xử lý nợ xấu, tuy nhiên, chính sách vẫn có những điểm “xấu” nên cần phải hoàn thiện để bảo đảm việc xử lý nợ xấu nói chung của nền kinh tế và nợ xấu nói riêng của ngành ngân hàng tốt hơn.
Theo Đại đoàn kết